Nếu
ai đã đến Đền Hùng Phú Thọ đều phải qua cổng chính để lên Đền. Cổng đền có bức
đại tự "Cao sơn cảnh hành
"(tôi nghe giải thích là Lên núi cao,nhìn xa rộng). Hai bên cổng có đôi
câu đối:
Thác thuỷ khai cơ tứ cố sơn hà quy bản
tịch
Đăng cáo viễn vọng, quần phong la liệt
tự nhi tôn
Tôi
nghe giải thích là:
Mở lối đắp nền , bốn mặt non sông quy
một mối
Lên cao nhìn rộng , nghìn trùng đồi núi
tựa đàn con
Điều
thú vị là Cổng chính Đền Hùng , theo giải thích của Sở Văn Hoá Thông Tin Thể
Thao tỉnh Phú Thọ thì là do Bà Phan Thị Thịnh , hiệu là Đồng Thịnh ở Hà Nội đã
Công Đức tiền xây dựng nên. Năm đó là năm 1917.
Năm
1917 là năm gì ?. Năm 1917 là một cái mốc quan trọng đối với nước ta. Giai đoạn
1814-1918 Pháp đã đưa được 92.411 người lính Việt Nam (trong đó 48.922 chiến
đấu và 48.981 lính thợ ) sang bên Pháp để tham dự chiến tranh thế giới lần thứ
Nhất. Quãng thời gian này Pháp còn phát hành hàng trăm triệu Phơ Răng (Françs)
do bán công trái . Phiếu quốc phòng Pháp cũng phát hành hàng trăm triệu đồng
Phơ răng (Françs) . Năm 1916 sau khi phế truất vua Duy Tân và đày sang đảo
Réunion, thực dân Pháp đưa Khải định ( con của Đồng Khánh ) lên ngôi. Năm 1917
đưa vua Lào sang thăm Khải Định và cũng đã đưa Khải Định ra thăm miền Bắc. Năm
1917 thay đổi tay sai ở làng xã có bộ phận "bàn việc làng" chánh
hương hội , phó hương hội,các tộc biểu , thư ký , thủ quỹ,... còn bộ phận
" thừa hành " gồm có lý trưởng , phó lý , xã tuần,trương tuần. Thực
dân Pháp cho phép " cải lương" trong lúc ma chay , cúng lễ, giỗ chạp,
đình đám. Cho sửa sang trưởng học và đọc báo ở đình làng...
Cũng
năm 1917 Pháp cho mở trường cho con gái ở Sào Gòn và Huế. ( thời phong kiến
chưa có tiền lệ ).
Việc
thi theo lối cũ bị bãi bỏ (1915 ở Nam Định,1918 ở Thanh Hoá 1919 ở Huế
.8-7-1917) Pháp cho thành lập " Đại học cục " để đào tạo trí thức
Việt nam để phục vụ cho chính sách " Pháp Việt đề huề".
.
30-8-1917 khởi nghĩa Thái Nguyên của Lương Ngọc Quyến và Trinh Văn Cấn .
Tôi
cứ bị ám ảnh mãi hàng chục năm nay với sự kiện bà Đồng Thịnh góp công đức xây
cổng chánh Đền Hùng. Sao lại có người yêu nước "uống nước nhớ nguồn"
như thế ?. Và ngày nay hiện tượng tín ngưỡng dân gian gắn với 36 giá đồng cũng
hồn nhiên rầm rộ như việc gọi hồn người thân đã chết hoặc nhờ nhà ngoại cảm tìm
mộ thất lạc hoặc mời thày tướng số , phù thuỷ hoặc mời thày địa lý xem hướng
nhà!
Chưa
bao giờ tín ngưỡng dân gian lại phát triển mãnh liệt như nấm mùa xuân khắp các
thôn xóm ở Kinh Bắc.
Vậy
36 giá đồng là gì ?
2- Tín Ngưỡng Dân Gian Đã Có Từ Lâu :
Người
Việt , ai cũng đều tin mình là con Rồng cháu Tiên. Dòng dõi rất cao quý . Trong
Lĩnh Nam Chích Quái mở đầu là truyện Hồng Bàng Thị kể về Kinh Dương Vương - Lạc
Long Quân và kể Âu Cơ để ra 100 quả trứng . Âu Cơ mang 50 người con đến ở Phong
Châu , người con cả lên làm vua , hiệu là Hùng Vương.
Theo
Lê Tắc trong An Nam chí lược thì thời Trần, đêm ngày 30 Tết có đoàn thày tu vào
nội cung nhà vua làm lễ "Khu Na" (nghĩa là đuổi tà ma quỷ mị).
3- Tên Của 36 Giá Đồng :
Đến
nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền rộng rãi công khai 36 giá đồng , đó là :
1) Tôn
nhang thỉnh Phật
2) Thỉnh
mẫu
3) Tôn
quân thần Triều
4) Thái
sư nhất phẩm
5) Quan
lớn đệ nhất
6) Thỉnh
quan đệ nhị
7) Văn
quan đệ tam
8) Thỉnh
quan đệ tứ
9) Quan
lớn Tuần Trang
10) Văn
quan Hoàng triều
11) Chầu
đệ nhất
12) Chầu
đệ nhị
13) Chầu
đệ tam
14) Chầu
đức chúa Ba
15) Chầu
chúa Thác Bà
16) Chầu
đệ tứ
17) Chầu
chúa Bắc lệ
18) Chầu
Mười Đồng Mỏ
19) Chầu
bé Bắc Lệ
20) Thỉnh
ông Hoàng Cả
21) Văn
ông Hoàng Ba
22) Văn
ông Hoàng Bẩy
23) Văn
ông Hoàng Mười
24) Thỉnh
cô đệ nhất
25) Văn
cô đôi thượng
26) Văn
cô đôi thoải
27) Văn
cô năm suối
28) Văn
cô sáu lục cung
29) Thỉnh
cô tám đồi chè
30) Văn
cô chín
31) Thỉnh
cô mười
32) Văn
cô bé
33) Thỉnh
cậu hoàng cả
34) Thỉnh
cậu hoàng đôi
35) Thỉnh
cậu hoàng ba
36) Văn
cậu hoàng bé.
Trên
thực tế tuỳ từng nhóm người tham gia mà diễn xướng nhiều hay ít các giá đồng
trên.
4- Hát Chầu Văn Phục Vụ Các Giá Đồng :
Muốn
tổ chức diễn xướng hầu đồng thì nhất thiết cần phải có Ban nhạc chầu văn ,
thường thấy có các nhạc cụ dân tộc ví dụ đã thấy như trống, nhị , đàn bầu ,
sáo, ... đặc biệt là Tiếng Hát Chầu Văn lảnh hót du dương mê lịm lòng người.
Hiện nay ở Việt nam có nghê sỹ Xuân Hinh (quê Kinh Bắc) hát chầu văn hay nhất.
Còn con gái thì nghe thấy có nữ nghệ sỹ Thanh Ngoan (có thể hát chèo , hát được
chầu văn) , nay lại thấy xuất hiện hát Xẩm (lối hát người ăn xin ngày xưa),
trong đám hát xẩm để thu hút khách ở chợ Đồng Xuân họp buổi đêm).
Người
hát chầu văn cứ truyền khẩu nhau tuỳ theo từng nhóm , từng vùng . Ông Ngô Linh
Ngọc (Phú Thọ) đã sưu tầm nghiên cứu rất công phu lời các bài hát chầu văn cổ.
Trên thực tế cùng một giá đồng nhưng mỗi nhóm hát chầu văn lại có lời hát khác
nhau . Tuy " cái thần " của bài hát phục vụ giá đồng thì đều giống
nhau . Nhung cách đặt câu , đặt lời không giống nhau.
Ví
dụ lời hát văn cho giá hầu quan trong bậc nhất về Quan Tuần Tranh có những câu
như sau :
Tính
ông chính trực uy cương
Thần
thông lục trí ai dương anh tài
Cảnh
thiên thai ông hằng chầu chực
Các
bộ nàng dưỡng dục dâng hoa
Chầu
thôi ông trở ra về
Truyền
quân dâng nước thuỷ tề chan chan
Cảnh
thiên thai ông hằng chầu chực
Các
bộ nàng dưỡng dục dâng hoa
Chầu
thôi ông trở ra về
Truyền
quân dâng nước thuỷ tề chan chan
Hoặc
như
Thiên
sinh văn võ gồm tài
Đức
ông lịch sự đóng vai anh hùng
Đêm
ngày giữ việc thuỷ cung
Đợi
lệnh cửu trùng cứu trợ sinh nhân
Ai
cầu nhân đắc nhân
Cầu
phúc đắc phúc bản thân điều hoà.
Thông
thường thì thấy các giá đồng luôn gắn với Lời các bài hát Chầu văn sau đây :
Văn
mẫu thoải
Trần
triều sự tích văn
Văn
chầu nhị vị công chúa
Ngũ
vị hoàng tử văn
Đệ
nhất vương quan văn
Đệ
nhị vương quan văn
Đệ
tam vương quan văn (Quan tam phủ )
Đệ
ngũ vương quan văn (Quan Tuần Tranh)
Văn
ông hoàng triều (Quan Hoàng triều)
Đệ
nhất vương quan văn (Quan đệ thất )
Chầu
đệ nhị thượng ngàn
Chầu
đệ tứ khâm sai văn
Chầu
lục văn
Chầu
Mười Đồng Mỏ
Thập
vị hoàng tử văn
Đức
hoàng quận văn (ông hoàng cả)
Hoàng
ba thoải văn
Cô
cả
Thượng
ngàn sơn tinh công chúa ăn (văn cô đôi thượng)
Cô
ba thoải
Cô
chín đền sòng văn…..
5- Không Gian Diễn Xướng Hầu Đồng :
Chỉ
cần một chiếc chiếu trải trong chính điện của một ngôi đền là có thể diễn xướng
được ngay những giá đồng.
Chúng
tôi đã nghiên cứư những giá đồng tại đền Phủ dầy,Thác Bờ, Kiếp Bạc ... Hiên nay
Điện mọc nên như nấm mùa xuân , cho nên các giá đồng diễn xướng ở ngay các điện
tư nhân.
Bàn
thờ bài trí tượng Chư vị, ngựa võng,hài
hộp,vàng xanh vàng đỏ,nón to nhỏ bằng giấy treo lùng lẳng trên nóc đền / điện.
Còn có những con rắn to thè lưỡi dài quấn quanh xà nhà .
Bàn
thờ bầy các đồ lễ : hoa rực rỡ đủ màu sắc , hoa quả theo mùa . Hiện nay đời
sống cao trên bàn thờ còn thấy có Thuốc lá 555. nước giải khát cocacola. Bánh
kẹo công nghiệp , trà hộp . Ngoài bắc những có các loại hoa quả từ Nam Bộ mang
ra , ví dụ như Xoài
6- Ai Tham Gia Hầu Đồng :
Hầu
hết là đàn bà sinh để đau yếu ,hoặc con gái hiếm muộn (thường là cho là bệnh
Phạm Nhan làm- Phạm Nhan bị kiếm thần của Trần Hưng Đạo chém chết , sau khi
chết biến thành đỉa, vắt và muỗi , tuy chết nhưng nó vẫn lẩn lút ăn những thứ
tanh hôi của phụ nữ), hoặc tiền kiếp phu thê ghen tuông, hoặc bị ma ám mà thành
bệnh Họ tham gia để hy vọng khỏi các bệnh của mình. Vì Thanh đồng là những
người thờ về Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo).
Nhưng
nay nhận thấy số người trẻ tuổi tham gia hầu đồng ngày càng nhiều . Họ giải
thích : vì họ " có số ' " có căn" nên phải lập điện hoặc hàng
năm phải đi hầu đồng thì " mới mát mẻ ' cho mình và cả người thân trong
gia đình.
Thậm
chí có người bị bệnh hiểm nghèo , bệnh viện "đã trả về nhà" , họ vẫn
còn "một phần nghìn tia hy vong" cầu kêu "đáng thần linh"
chữa khỏi bệnh hiểm nghèo mà y học hiên đại đã bó tay. Phan Kế Bính trong Phong
tục Việt nam thì baì bác kịch liệt cách chữa bệnh này. Còn tôi (NVH) đã ngẫu
nhiên gặp một vị ni sư ở Thiên viện Trúc Lâm Tây Thiên ở xã Đại Đình huyện Tam
Đảo tỉnh Vĩnh Phú , ni sư bán sách nhà Phật ở Thiền viện này , Ni sư kể cho tôi
nghe : ni sư trước bị bệnh viện trả về với căn bệnh Thoái hoá cột sống để chờ
chết , Thế là ni sư vào Thiền Viện Đà Lát xin được tập Thiền , thế mà khỏi
bệnh, nay ra "công tác" ở Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên - Nơi đây đã
có Thiện tự trước thời Hùng Vương.
Còn
Đồng Cốt là những người thờ về chư vị như thờ bà Liễu Hạnh công chúa, Thượng
Ngàn công chúa, Cửu Thiên Huyền nữ... đó là các Đức mẹ hoặc thờ về các vị Hoàng
tử thì gọi là Đức ông.; thờ về các cậu thì gọi là đồng Cậu Quận; thờ các cô thì
gọi là Đồng Cô .
7- Một Số Nhận Xét:
7.1-
Rất cần thiết cho tầng lớp bình dân có Nhu cầu giải toả "căng thẳng"
sau những ngày lao động
7.2-
Nội dung các bài hát văn đồng hành với diễn xướng hầu đồng đều ca ngợi cảnh đẹp
đất nước non xanh núi biếc ,thậm chí còn ca ngợi những anh hùng dân tộc như
Trần Hưng Đạo hoặc vô danh như Quan Tuần Tranh . Qua đó lòng yêu nuoc càng sâu
nặng
7.3-
Với 36 giá đồng gắn với 36 bộ trang phục khác nhau , với các mầu sắc rực rở kèm
theo các đạo cụ hầu đồng (quạt, cờ hội, kiếm , mái chèo ...) thực chất như một
cuộc trình diễn thời trang dân tộc .
7.4-
Chỉ vẻn vẹn trên một chiếc chiếu mà Đồng cốt đã diễn xướng 36 giá đồng , phải
nói sinh động hơn xem cải lương, chèo và tuồng . Nó "thôi miên" khán
giả "tự nguyện" . Cảnh múa kiếm , cảnh chèo thuyền , cảnh múa quạt
thật sinh động.
7.5
Các sản vật quê hương truyền thống và hiện đại đều được đặt trên bàn thờ. Cùng
với các loài hoa đẹp nhất trưng bày , không gian diễn xướng lung linh huyền ảo.
Cái đẹp quê hương được tôn thờ.
8- Kết Luận :
Cụ
Phan Kế Bính ở thế kỷ 20 đã công kích tín ngưỡng dân gian này .
Và
trên thực tế (thế kỷ 21 này) cũng có kẻ lợi dụng diễn xướng 36 giá đồng để
"mưu sinh" , hoạ hoằn đã có hậu quả mê tín đánh chết người (vu cho họ
là ma quỷ) khi đến xem hầu đồng .
Nhưng
theo tôi, nếu loại bỏ mặt tiêu cực , thì 36 giá đồng là di sản văn hoá phi vật
thể cần nâng niu bảo tồn.